Tìm hiểu sơ lược về giao thức định tuyến RIP (Routing Information Protocol)

Thảo luận trong 'Routing' bắt đầu bởi hungpt, 9/11/17.

  1. hungpt

    hungpt New Member

    Sơ lược về giao thức định tuyến RIP (Routing Information Protocol)

    Routing Information Protocol (RIP) là giao thức định tuyến vector khoảng cách (Distance Vector Protocol) xuất hiện vào năm 1970 bởi Xerox như là một phần của bộ giao thức Xerox Networking Services (XNS). Và sau đó RIP được chấp nhận rộng rải trước khi có một chuẩn chính thức được xuất bản. Đến năm 1988 RIP mới được chính thức ban bố trong RFC1058 bởi Charles Hedrick. RIP được sử dụng rộng rãi do tính chất đơn giản và tiện dụng của nó.
    • RIP là giao thức chuẩn mở của IEEE, là giao thức định tuyến vector khoảng cách
    • Hoạt động ở layer 4 (transport) sử dụng UDP port 520.
    • Hỗ trợ cả classless (Ripv2) và class full (Ripv1)
    • AD =120, Metric = Hop-count (Khi packet đi ra khỏi cổng 1 router thì Metric tăng lên 1)
    • Khi A kết nối với B. Nó sẽ gửi gói tin hello với định kì 30s 1 lần (gói hello chính là bảng định tuyến của Router A). Chỉ gửi bảng định tuyến cho những router kết nối trực tiếp với nó.
    • Thuật toán mà RIP sử dụng để xây dựng nên routing table là Bellman-Ford
    upload_2017-11-9_13-29-10.jpeg

    RIP sử dụng hop-count như một thước đo định tuyến để tìm kiếm đường đi tốt nhất giữa hai điểm. Hop-count là số lượng Router mà một packet phải đi qua cho đến khi đến được địa chỉ đích. Để tránh tình trạng Lop vô tận thì RIP giới hạn Hop-count tối đa là 16. Khi một Router nhận được một thông tin láng giềng Router sẽ tăng chỉ số Hop lên 1 vì Router cũng xem nó là 1 Hop trên đường đi, nếu sau khi tăng chỉ số Hop lên 1 mà chỉ số này lớn hơn 15 thì Router xem như không tồn tại mạng đích trên tuyến đường này.

    + RIP time
    Route update timer: là thời gian trao đổi thông tin định tuyến của Router với tất cả các active interface. Thông tin ở đây là toàn bộ bảng định tuyến và thởi gian định kỳ là 30s.

    Routing invalid Timer: là khoảng thời gian xác định một tuyến đường invalid. Được bắt đầu nếu hết thời gian Hold time mà không nhận được update, sau khoảng thời gian đó Router sẽ gửi một update tới tất cả các Interface là tuyến đường đó đã invalid.

    Holddown timer: giá trị này được sử dụng khi có thông tin định tuyến bị thay đổi. Sau khi nhận thông tin thay đổi, Router đặt tuyến đường đó vào trạng thái hold-down. Điều này có nghĩa là Router không gửi quảng bá cũng như không nhận quảng bá về thông tin đó trong khoảng thời gian Hold down timer. Sau khoảng thời gian này Router mới nhận và gửi thông tin về tuyến đường đó. Điều này làm giảm thông tin sai mà Router học được. Giá trị mặc định là 180 giây.

    Route flush timer: là khoảng thời gian được tính từ khi tuyến đường ở trạng thái không hợp lệ đến khi tuyến bị xoá khỏi bảng định tuyến. Giá trị Route invalid timer phải nhỏ hơn giá trị Route flush timer vì Router cần thông báo tới các Router bên cạnh của nó về trạng thái invalid của tuyến đường đó trước khi local routing được update.

    RIP có 2 phiên bản là, RIPv1 và RIPv2, RIPv2 thừa hưởng tất cả các ưu điểm của RIPv1 và khắc phục được những yếu điểm của RIPv1. Vì vậy,RIPv2 được sử dụng rộng rãi hơn RIPv1.
    Điểm khác nhau giữa 2 phiên bản:
    upload_2017-11-9_13-44-48.png

    Bài viết liên quan:
    - Cấu hình định tuyến RIP, RIPv2 trên thiết bị Router Cisco
     
  2. hungpt

    hungpt New Member

    Tìm hiểu Giao thức định tuyến RIP (Routing Information Protocol)

    - RIP là một giao thức IGP để phân phối thông tin định tuyến giữa các router bên trong một AS
    - RIP là một giao thức định tuyến vector khoảng cách
    [​IMG]
    - Mỗi router khởi tạo bảng định tuyến với một danh sách các kết nối trực tiếp với các router gần nhất.
    - Mỗi router sẽ flood bảng định tuyến của nó trên toàn AS
    - Khi một router nhận được một thông tin từ router khác, nó sẽ update bảng định tuyến của mình để cuối cùng nó đảm bảo rằng có thể biết được tất cả các router khác.
    - Trong bảng định tuyến của router, mỗi đích đến có một thuộc tính gọi là metric cost, đó là khoảng cách vector từ router đến đích.
    - Nếu một router có thể chọn nhiều hop để gửi data tới đích, nó sẽ quyết định chọn một hop dựa vào so sánh các metric phải trả khi gửi data .

    Bài viết liên quan:
    - Các giao thức định tuyến (Routing Protocol)
    - Tổng quan về giao thức định tuyến (Routing Protocols Overview)
    - Cấu hình định tuyến RIP, RIPv2 trên thiết bị Router Cisco
     

trang này